Vì sao doanh nghiệp bị từ chối tái xuất hàng nhập khẩu?

(HQ Online) – Cục Hải quan TPHCM đã từ chối giải quyết thủ tục tái xuất lô hàng nhập khẩu của một DN do liên tục từ chối nhận hàng và thực hiện tái xuất các lô hàng nhập khẩu.  

vi sao doanh nghiep bi tu choi tai xuat hang nhap khau
Hoạt động XNK hàng hóa qua cảng Cát Lái TPHCM. Ảnh: Thu Hòa.

Từ chối 5 container bia NK

Theo Cục Hải quan TPHCM, đầu năm 2020, Công ty TNHH T.B.L có đơn khiếu nại lần hai đối với Quyết định số 107/QĐ-GQKN-KV1 ngày 9/1/2020 giải quyết khiếu nại lần đầu của Chi cục Hải quan cửa khẩu cảng Sài Gòn  khu vực 1 (sau đây gọi tắt là Chi cục) đã không giải quyết thủ tục tái xuất 5 container bia nhập khẩu thuộc các vận đơn gom hàng số SYDHCM2911192A và SYDHCM2911192B mà người nhận hàng (theo vận đơn) là Công ty TNHH T.B.L có văn bản từ chối nhận hàng với lý do hàng không được đưa vào địa điểm thu gom hàng lẻ (CFS) của cảng SP-ITC.

Sau khi thụ lý khiếu nại, Chi cục xác minh, yêu cầu cung cấp thông tin, tài liệu, giải trình lý do từ chối nhận hàng, tái xuất qua nước thứ ba và thực hiện đối thoại với DN. Do có nghi ngờ về lý do từ chối nhận hàng và việc tái xuất các lô hàng trước đây, vì vậy, Chi cục đã nhiều lần có văn bản yêu cầu Công ty T.B.L. làm rõ các nghi vấn và cung cấp văn bản chính thức của người gửi hàng, người vận chuyển hàng hóa, nhưng Công ty không thực hiện mà liên tục yêu cầu Chi cục phải tiếp nhận hồ sơ theo Điều 96 Thông tư số 38/2015/TT-BTC.

Theo văn bản gửi Chi cục thì Công ty T.B.L. từ chối nhận hàng gửi sai điều khoản hợp đồng là 5 container bia (FCL) không được đưa vào Kho hàng lẻ CFS của Cảng SP-ITC. Công ty xuất trình Hợp đồng mua bán số 2019IMTBL ngày 1/11/2019 không có tên người đại diện Công ty I.M Freight International Singapore và nơi ký cũng không có chữ ký xác nhận của bên bán. Trong bản in email từ chối nhận hàng thể hiện nội dung trao đổi giữa Raymond Loh (raymondloh@imf.com.sg) với Nguyen Thanh Tra (trant@tbl.vn). Tra cứu trên Internet không tìm ra website nào mang tên www.imf.com.sg hoặc www.i.mfreight.com hoặc tương tự.  Do đó, có cơ sở nghi ngờ bản in email của Công ty xuất trình là không có thật.

Cùng với đó, qua xác minh tại đại lý hãng tàu, chứng từ vận chuyển… cơ quan Hải quan phát hiện nhiều nghi vấn xung quanh việc giao nhận hàng giữa Công ty T.B.L và Công ty T. Hà Nội, chính vì vậy, Chi cục đã ban hành Quyết định số 107/QĐ-GQKN-KV1 ngày 9/1/2020 để giải quyết khiếu nại lần đầu của Công ty TNHH T.B.L, như sau: “Việc Công ty khiếu nại Chi cục Hải quan cửa khẩu cảng Sài Gòn khu vực 1 không thực hiện thủ tục tái xuất cho lô hàng thuộc vận đơn số SYDHCM2911192A và SYDHCM2911192B theo Điều 95, 96 Thông tư số 38/2015/TT-BTC và Nghị định số 08/2015/NĐ-CP là không có căn cứ và không phù hợp với quy định hiện hành.”

14 lần từ chối nhận hàng

Không chỉ có lô hàng nêu trên, theo thống kê của Chi cục, từ tháng 10/2018 đến cuối năm 2019, Công ty này liên tục từ chối nhận 14 lô hàng với cùng lý do gửi nhầm hàng hoặc gửi sai điều khoản hợp đồng. Qua xác minh của Chi cục, các lô hàng tái xuất đều có thông tin tên hàng, số lượng khác so với thông tin của lô hàng nhập khẩu. Các lô hàng này đều liên quan đến Công ty TNHH T. Hà Nội.

Bên cạnh đó, theo xác minh của cơ quan Hải quan tại Sở Kế hoạch và Đầu tư TPHCM, từ năm 2017 đến 2019 ông N.T.T. là chủ sở hữu của cả Công ty TNHH T. Hà Nội và Công ty TNHH T.B.L. Giấy chứng nhận kinh doanh của cả hai DN này đều có ngành nghề chính là Dịch vụ giao nhận hàng hóa, đại lý tàu biển.  Do đó cá nhân ông N.T.T. và hai công ty không thể không biết Địa điểm thu gom hàng lẻ (CFS) được quy định tại Điều 90 Nghị định số 08/2015/NĐ-CP. Như vậy, việc Công ty TNHH T. Hà Nội khai báo thêm (nếu có) Kho CFS vào 2 vận đơn gom hàng lẻ là không đúng quy định pháp luật. Công ty TNHH T.B.L biết quy định về Kho CFS nhưng yêu cầu giao hàng tại Kho CFS là cố ý thỏa thuận hợp đồng trái quy định pháp luật.

Ngoài ra, Chi cục cũng có nhiều thông tin nghi ngờ về tính xác thực của các chứng từ vận tải gom hàng qua xác minh Công ty T. Hà Nội và Công ty TNHH T.B.L đều không thể cung cấp thông tin về hãng vận chuyển và đại lý hãng vận chuyển  đã thực hiện hợp đồng vận chuyển với người gửi hàng. Như vậy, việc Chi cục nghi ngờ lý do từ chối nhận hàng của Công ty T.B.L. là có cơ sở.

Bên cạnh đó, căn cứ kết quả xác minh các lô hàng đã tái xuất theo đề nghị của Công ty T.B.L. trước đây thì tất cả đều thay vỏ container, thay đổi hãng vận chuyển khác, có sự sai khác tên hàng, số lượng giữa chứng từ vận tải nhập với chứng từ vận tải xuất.  Như vậy, việc Chi cục nghi ngờ Công ty TNHH T.B.L lợi dụng việc tái xuất để chuyển tải hàng hóa qua nước thứ ba nhằm mục đích không thể truy xét (tracking) lịch sử vận chuyển, nguồn gốc hàng hóa, dùng lãnh thổ Việt Nam để chuyển tải hàng hóa không minh bạch là có cơ sở.

Trong buổi đối thoại với Cục Hải quan TPHCM, đại diện công ty cũng không cung cấp thêm tài liệu chứng từ theo yêu cầu vì cho rằng chỉ có trách nhiệm cung cấp tài liệu chứng từ theo Điều 96 Thông tư số 38/2015/TT-BTC, việc không nhập khẩu hàng hóa vào lãnh thổ Việt Nam là không buôn lậu, không gian lận thương mại nên không vi phạm pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên, đại diện DN không giải thích được lý do tại sao các lô hàng tái xuất qua nước thứ ba trước đây sai khác với lô hàng nhập khẩu về tên hàng, số lượng.

Căn cứ kết quả xác minh nêu trên, còn nhiều vấn đề nghi vấn chưa được làm rõ do việc Công ty T.B.L. không hợp tác, không cung cấp hồ sơ, tài liệu cho cơ quan Hải quan và sự bất hợp lý về lý do từ chối nhận hàng, chứng từ vận tải cung cấp không đúng quy định pháp luật. Công ty từ chối nhận hàng nhưng vẫn giữ Lệnh giao hàng và người gửi hàng không có văn bản chính thức gửi cơ quan Hải quan mặc dù đã được yêu cầu là chưa đúng quy định. Do đó, theo Hải quan TP HCM, nội dung khiếu nại lần hai của Công ty T.B.L là sai. Từ những nhận định và căn cứ trên, Cục Hải quan TPHCM giữ nguyên Quyết định giải quyết khiếu nại số 107/QĐ-GQKN-KV1 của Chi cục Hải quan cảng Sài Gòn khu vục 1 giải quyết khiếu nại lần đầu của Công ty T.B.L. Đồng thời yêu cầu Công ty T.B.L cung cấp cho Chi cục các hồ sơ, tài liệu, chứng từ liên quan việc từ chối nhận hàng theo quy định tại Điều 48 Nghị định số 08/2015/NĐ-CP, khoản 8 Điều 52b được sửa đổi, bổ sung tại khoản 32 Điều 1 Thông tư số 39/2018/TT-BTC để làm rõ các nghi vấn và bất hợp lý nêu trong kết quả xác minh của quyết định này.

Trong một diễn biến khác, mới đây, Công ty T. Hà Nội cũng khiếu nại Quyết định của Chi cục Hải quan cảng Sài Gòn khu vực 1 về việc không giải quyết thủ tục tái xuất 1 container rượu nhập khẩu mà người nhận hàng là Công ty T. Hà Nội. Công ty đã có văn bản từ chối nhận hàng với lý do gửi nhầm và đề nghị được sang container xuất trả lô hàng này ra khỏi lãnh thổ Việt Nam vì lô hàng này không phải của Công ty T. Hà Nội.Tuy nhiên, phát hiện nhiều điểm bất thường như lô hàng nêu trên, Cục Hải quan TPHCM đã có quyết định giải quyết khiếu nại giữ nguyên Quyết định của Chi cục Hải quan cảng Sài Gòn KV1.

Lê Thu  ( Theo nguồn báo Hải Quan 09:30 | 19/04/2020)
Link: https://haiquanonline.com.vn/vi-sao-doanh-nghiep-bi-tu-choi-tai-xuat-hang-nhap-khau-124986.html
Please contact with us:
PHAM LE TRADING & LOGISTICS COMPANY LIMITED
Kim Pham – Phone: 0917474043
Email: kim.pham@phamle.com.vn / binhvj@gmail.com

537 views